“Tour 4 trong 1” tại châu Á - Thái Bình Dương
Giống như cuộc đua xe đạp đường trường quốc tế nổi tiếng “Tour de France”, các nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới đã quy tụ về đây và thực hiện một lộ trình làm việc liên tục trong gần hai tuần lễ và không kém phần căng thẳng. Bắt đầu từ hội nghị APEC 22 (từ ngày 5 đến 11-11-2014, tại Bắc Kinh, Trung Quốc), rồi đến Hội nghị cấp cao ASEAN 25 và cấp cao Đông Á lần thứ 9 (từ ngày 12 đến 13-11-2014, tại Nay Pyi Taw, Myanmar) và kết thúc bằng hội nghị cấp cao G20 (ngày 15 và 16-11-2014, Brisbane, Australia).
Với chức năng khác nhau, đương nhiên mỗi hội nghị đều có một chương trình nghị sự riêng biệt. Hội nghị APEC 22 tập trung chủ yếu vào các vấn đề tăng trưởng, kết nối của châu Á – Thái Bình Dương. Ngoài những vấn đề liên quan đến tiến trình thành lập các Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015, hội nghị ASEAN 25 còn hướng vào cách thức ứng phó với những bất ổn cũng như vai trò của ASEAN trong các liên kết trong khu vực. Tại hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), phạm vi nghị đàm của các nhà lãnh đạo rộng lớn hơn, vượt ra ngoài tầm khu vực, từ vấn đề chống buôn bán động, thực vật hoang dã đến Quy trình Ứng phó nhanh với thảm họa, hay các biện pháp đối phó của khu vực đối với dịch bệnh Ebola, các tổ chức khủng bố tại Iraq và Syria v.v. Hội nghị G20 thì đề cập tới rất nhiều vấn đề liên quan tới thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu, cụ thể như nâng mức tăng trưởng GDP lên hơn 2% trong năm năm tới, chống tham nhũng, giảm chênh lệch lao động nam nữ xuống 25% vào năm 2025, tăng cường sức mạnh của các tổ chức tài chính toàn cầu, trong đó ưu tiên tiến trình cải tổ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) v.v.
Mặt khác, do diễn ra trong bối cảnh thế giới và khu vực đang hết sức căng thẳng nên những hội nghị thượng đỉnh này được coi như là cơ hội cuối cùng trong năm giúp các nước có thể cải thiện tình hình. Chính vì thế, bên cạnh những khác biệt nêu trên, cả bốn hội nghị đều có chung một số điểm sau:
Thứ nhất, dù vẫn còn không ít bất đồng về quan điểm do khác biệt về lợi ích, nhưng tất cả các đoàn tham dự hội nghị đều có chung một nhận thức về sự cần thiết phải thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm an ninh. Quan trọng hơn, các nhà lãnh đạo đều hiểu rằng, để đạt được các mục tiêu đó thì phải thông qua hợp tác, liên kết ở quy mô sâu rộng hơn. Đơn cử như tại APEC 22, tuy trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, quá trình đàm phán về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, gồm 12 thành viên) và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, gồm 16 thành viên) vẫn đang dang dở nhưng các nhà lãnh đạo vẫn thông qua văn kiện “Lộ trình Bắc Kinh về đóng góp của APEC đối với việc thực hiện Khu vực thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP)”. Còn tại hội nghị G20, bất chấp tình hình tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn tiếp tục sụt giảm, nhưng Tuyên bố chung vẫn thể hiện sự đồng thuận cao về Kế hoạch hành động chung nhằm mục tiêu tăng GDP toàn cầu lên hơn 2% trong năm năm thông qua thúc đẩy thương mại tự do.
Thứ hai, xuất phát từ nhận thức chung về mối quan hệ chặt chẽ giữa an ninh và phát triển trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, nên cả bốn hội nghị đều đưa cả hai vấn đề này vào chương trình nghị sự. Những vấn đề liên quan tới cuộc khủng hoảng Ucraina, những tranh chấp trên biển Hoa Đông và biển Đông hay cuộc chiến chống khủng bố tại Iraq và Syria đều được đem ra bàn thảo tại APEC 22 và G20, là những hội nghị chuyên về kinh tế. Ngược lại, những vấn đề liên quan tới thúc đẩy tăng trưởng, cải tổ thị trường lao động hay giảm bớt hàng rào thương mại cũng được đưa ra tại ASEAN 25 và EAS, những hội nghị thường chú trọng tới các vấn đề an ninh. Thực tế thì nếu có đoàn đại biểu nào muốn tránh né sự lồng ghép này cũng không được bởi hiện, lệnh trừng phạt của Mỹ và EU áp đặt lên nước Nga vì vấn đề Ucraina là minh chứng rõ ràng nhất. Thật khó tách bạch hiệu ứng kinh tế và an ninh từ những biện pháp trừng phạt này.
Thứ ba, các hội nghị đều phản ánh quyết tâm của các đoàn đại biểu hướng tới sự an toàn và thịnh vượng. Khác với các năm trước đó, tại các hội nghị lần này, các đoàn đại biểu đã thẳng thắn nêu ra những vấn đề gai góc nhất, thậm chí vốn bị coi là nhạy cảm trong một vài mối quan hệ song phương, tiêu biểu như vấn đề xung đột tại Ucraina hay tranh chấp trên biển Đông. Đặc biệt, nhiều cuộc gặp song phương "bất đắc dĩ", như giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập cận Bình với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, hay giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama với Tổng thống Nga Putin, cũng đã diễn ra bên lề các hội nghị.
Như vậy, tương tự như “Tour de France”, mỗi hội nghị cũng giống như từng chặng đua đều có những đặc điểm riêng biệt, nhưng tất cả đều hướng về duy nhất một đích – An ninh và thịnh vượng.
Tuy nhiên, khác với cuộc đua “Tour de France”, nơi chiến thắng chỉ dành cho người cán đích đầu tiên, còn châu Á – Thái Bình Dương có được an toàn và tăng trưởng hay không lại phụ thuộc vào không chỉ tất cả các nước trong khu vực mà còn nhiều nước khác trên phạm vi toàn cầu.
Vậy liệu công thức "4 trong 1" này có giúp cho các nước trong khu vực đạt được những mục tiêu nêu trên? Điều này sẽ thật khó đoán định một cách chắc chắn.
Trước hết, đúng là tại các hội nghị này các nhà lãnh đạo đã đi đến kết luận, để có được sự thịnh vượng thì rất cần một sự hợp tác bình đẳng, một sự liên kết sâu rộng. Tuy nhiên, khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nền kinh tế vẫn còn quá lớn, và đây chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tồn tại song song nhiều liên kết kinh tế song phương và đa phương trong khu vực. Ngay chính tại các hội nghị này, dường như những cuộc gặp riêng rẽ của các tập hợp lực lượng trong khu vực vẫn thu hút được sự quan tâm nhiều hơn là các phiên họp tổng thể. Quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng thông qua tự do thương mại chưa đủ lực để ngăn cản những chính sách bảo hộ mậu dịch, nhất là từ phía các nền kinh tế phát triển hơn.
Còn để có được một môi trường an toàn, các nhà lãnh đạo tham gia bốn hội nghị cũng bày tỏ sự tương đồng về tính cấp thiết phải đối thoại, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng lẫn nhau trong quá trình giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp. Nhưng chính sự chênh lệch về so sánh lực lượng giữa các nước trong khu vực đã khiến cho sự tương đồng này chỉ dừng lại ở mức độ quyết tâm. Hơn nữa, những vấn đề an ninh của khu vực lại quá phức tạp, và vì thế để có thể giải quyết theo hướng đáp ứng lợi ích của tất cả các bên liên quan, cần có thêm thời gian.
Thêm vào đó, những vấn đề của khu vực đã tồn tại suốt cả năm, thậm chí trong nhiều năm, thì không thể giải quyết chỉ bằng bốn hội nghị và trong thời điểm "năm cùng, tháng tận được".
Nếu vậy, kết quả của "tour 4 trong 1" này sẽ mang nhiều ý nghĩa của tương lai hơn là thực tại. Sự đồng thuận đạt được tại bốn hội nghị thượng đỉnh vừa qua chắc chắn sẽ giúp các nước trong khu vực có được sự tự tin và quyết tâm hơn khi bước vào năm mới 2015.